Thứ Hai, 4 tháng 6, 2007

Nơi chốn một thời

Từ Sài Gòn, theo Quốc lộ 1 ra đến địa đầu Phan Thiết, qua cầu số 5, qua cầu 40 (còn có tên cầu ông Nhiễu), vòng một khúc quanh, nhìn tay trái, sẽ thấy những chồng tỉn chất cao nối dài nghiêng nghiêng ánh sáng, trông rất lạ mắt, rất nghệ thuật.

Đó là một thời ta mới đến. Bây giờ không còn sót một mảnh tỉn nào. Bây giờ con ta hỏi: “Cái tỉn hình dáng thế nào hở ba?”

Đã thay đổi hoàn toàn – lò tỉn cây số 3, bây giờ là vila, là nhà cửa, là công ty, là hãng nước đá, là nhà nối nhà khang trang, nhưng lạc lỏng.

Trẻ con thời đó gặp người lớn là vòng tay cúi đầu. Bây giờ khác, la hét, ngổ ngáo.

Nơi đó, ta đã nợ quá nhiều, sự chất phát và lòng tương thân tương ái. Cái bơ vơ, túng thiếu được xóm làng quan tâm. Không biết gặt hái, ông Tư cũng gọi ra đồng. Nhà dột, bà Tư M, bà bảy H cho mượn thóc.

Một kẻ lang thang, chỉ có café, thuốc lá cũng được bà con lao động cho vào toán bốc vát:khoai lang, cá, nước đá. Thời vừa làm vừa dấu, khiêng vội vã lên xe bà Hai Cây Dừa, bà Na, xe cũng vội vã lao đi trong đêm, có khi chưa bỏ hết hàng, đã phải chạy.

Có những khuya chờ xe nước đá từ Sài Gòn ra, lặng lẽ vát vào nơi phủ dấu, như hàng cấm, như chất nổ. Thời mà nơi này có 5, 3 kg gạo không mang đi nơi khác được. Cá Phan Thiết không lén lút mang vào Sài Gòn, thì chỉ có làm nước mắm, rồi nước mắm cũng tiêu thụ ở Phan Thiết mà thôi.

Thời kỳ đó đã rêu cỏ, đã bay xa…

Ba đứa con ta đã lớn ở nơi này, bên dòng sông Cà TY đùng đục, eo xèo, bên QL1 A xiên xiên sáng nắng mưa chiều với bobo, rau muống, nói rau muống là nhớ chị H với lòng biết ơn.

Làm ruộng cũng thua, làm công nhân nước mắm cũng bệnh. Cuối cùng chiếc quán nhỏ bên đường với 5, 7 em học trò. Có lần mấy cậu bé ngừng xe đạp, nhìn vào và nói: giống chuồng bò quá.

Thời gian trôi theo chiếc xe đạp mini màu trắng, đỏ rồi xanh, sáng sáng vào chợ, lộc cộc, chầm chậm về nhà như kim đồng hồ với lỉnh kỉnh bánh kẹo, tạp hóa và mồ hôi lên dốc.

Những đứa con bắt đầu từ trường thôn, phường… rồi đến KTX Sài Gòn. Năm thứ hai đã tìm việc làm, đã đi dạy kèm và được học bổng, bởi mỗi tháng ta chỉ có vài trăm ngàn gởi nuôi.

Rồi ra trường từng đứa, từng đứa, đều có cơ quan, công ty nhận vào làm việc. Đó là sự may mắn và lòng cố gắng. Đó là công lao giáo dục của một người mẹ. Ra trường lao vào công việc, không có cả những ngày giải lao, di lịch như bạn bè. Có người sẽ bảo tiền đâu đi du lịch. Không sao, cậu con lớn năm thứ hai với chiếc máy ảnh PETRI đã đi xuyên ½ miền Trung: Nha Trang, Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Hội An và Huế với vỏn vẹn 150.000 đồng xin mẹ.

Bây giờ cuộc sống gia đình đã ổn, các con đều ý thức và đứng vững trên đôi chân mình. Điều ta an tâm và vừa lòng là các con biết yêu thương nhau, biết trải lòng với tha nhân, biết kẻ lớn người nhỏ.

Có điều làm ta thoáng buồn là sự hiểu lầm của mấy anh con nhà cậu (bên ngoại) trông rất gần mà cũng xa vời vợi… bởi mặc cảm và lòng trắc ẩn. Phải chi nhìn thẳng vào sự việc, công bằng và chân thật thì hay biết mấy…Nhưng biết nói sao, sự hiểu lầm với lòng nông cạn và ích kỷ.

Xin dừng với hai câu:

“Nghe như hoa cỏ bên đường

Vang lên âm điệu yêu thương cuộc đời.”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét